5 ông trùm mafia khét tiếng là nỗi khiếp sợ ở nhiều quốc gia trên thế giới

0
5296

Tuy nhiên, điều này đã làm phật lòng phe Phát xít. Tổ chức thống nhất của Vito Cascio Ferro đã trở thành cái gai trong mắt Mussolini (người đứng đầu phe phát xít Ý) và hắn đã ra lệnh tiêu diệt hoàn toàn tổ chức này cũng như Vito Cascio Ferro. Don Vito Cascio Ferro qua đời năm 1945.

Trong thế giới ngầm luôn ẩn chứa nhiều bí ẩn ít khi được tiết lộ. Các băng đảng mafia luôn là nổi khiếp sợ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Các ông trùm đứng phía sau để chỉ đạo chính là những kẻ đáng sợ và có hành tung khó lường.

Vito Cascio Ferro hay Lucky Luciano – Ông trùm của những ông trùm.


Có thể nói Vito Cascio Ferro là người có công rất lớn trong lịch sử thế giới ngầm khi liên kết và tập hợp tất cả những tổ chức mafia lại với nhau thành 1 thể thống nhất. Chính vì thế, ông được mọi người gọi là “ông trùm của những ông trùm đầu tiên trong lịch sử”. Lĩnh vực hoạt động của ông không hề bị giới hạn trong bất kỳ khuôn khổ nào.

Sinh ra trong 1 hoàn cảnh nghèo khổ và bắt đầu cuộc sống phạm pháp rất sớm. Từ bé, Vito Cascio Ferro đã nhận thực được nhiều điều trong cuộc sống và với tài thuyết phục, ngoại giao cũng như dùng người của mình, Vito Cascio Ferro từng bước nâng cao địa vị. Cũng như bao vị trùm mafia khác, Vito Cascio Ferro là 1 người rất tàn nhẫn, sẵn sàng ra tay hạ sát bất kỳ ai ngáng đường mình.

Vào những năm diễn ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất, 1 thuộc hạ của ông đã có ý định tạo phản và thông đồng cùng 40 tổ chức mafia khác tìm cách hạ bệ ông và sau đó kẻ phản bội này cùng với 40 tổ chức kia đã bị tiêu diệt sạch. Không chỉ là người tàn nhẫn, Vito Cascio Ferro còn là 1 người rất thông minh và nắm bắt thời thế, vào những năm chiến tranh thế giới thứ I diễn ra, ông đã bí mật cung cấp nguyên liệu chế tạo vũ khí cho phe phát xít đồng thời nắm bắt những vị trí chiến lược đánh nhau của pha xít và đồng minh, ông đã bán thông tin về những hải cảng an toàn cho các thương gia cũng như chính phủ Mỹ.

Mobile – Ambient Inview
Vào thế chiến thứ II, nắm bắt được ưu thế hiện tại, Vito Cascio Ferro đã phục vụ cho phe đồng minh và với sự hợp tác 2 bên đều có lợi này, ông tự do xuất khẩu heroin qua nhưng thanh kẹo ra toàn thế giới. Tuy nhiên, điều này đã làm phật lòng phe Phát xít. Tổ chức mafia thống nhất của Vito Cascio Ferro đã trở thành cái gai trong mắt Mussolini (người đứng đầu phe phát xít Ý) và hắn đã ra lệnh tiêu diệt hoàn toàn tổ chức này cũng như Vito Cascio Ferro. Don Vito Cascio Ferro qua đời năm 1945.

Salvatore Riina – Bố già khét tiếng của nước Ý

Khi mới 19 tuổi, Salvatore đã được ông chú Giacomo Riina giới thiệu vào tập đoàn tội phạm ở Corleone. Trong thời gian hoạt động ở Corleone, Salvatore được ông trùm của tổ chức coi trọng nhiều vì hắn là 1 trong những người giúp ông ta giết ông trùm cũ của tổ chức.

Tuy nhiên, vì việc giết Navarra (người đứng đầu trước của Corleone), Salvatore đã bị truy nã và lẩn trốn trong 10 năm. Sau đó, để có thể danh chính ngôn thuẩn để Salvatore giúp mình, Luciano (người đứng đầu tổ chức hiện tại) đã đe dọa sẽ giết sạch những nhân chứng cũng như bồi thẩm đoàn những người đang thụ lý vụ của Salvatore nên Salvatore đã được tự do.

Bước ngoặt trong cuộc đời Salvatore đến vào năm 1974, chính Luciano bị bắt vì vụ ám sát Navarra hơn 10 năm trước đó. Khi ông chủ thất thế, Salvatore nghiễm nhiên trở thành người nắm quyền điều khiển tập đoàn Corleone. Trong thời gian cầm quyền của mình, Salvatore đã trở thành 1 nỗi khiếp sợ của nước Ý lúc bấy giờ khi thẳng tay giết sạch những kẻ cản trở mình, từ đối thủ cạnh tranh đến cảnh sát, tòa án. Có thể nói, đây là thời kỳ đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới ngầm của Ý và con số nạn nhân bị Salvatore giết đến hàng trăm người.

Chính vì sự lộng hành quá mức, dám giết cả những thẩm phán của Salvatore, cảnh sát Ý đã quyết định tổ chức một cuộc càn quét mafia quy mô lớn nhằm ngăn chặn những hoạt động ngày một ngông cuồng của các tập đoàn này. Ngày 15/1/1993, Salvatore Riina bị bắt ngay trong xe của mình trên con đường cao tốc ở ngoại ô Palermo, thủ phủ của Sicily. Triều đại của bố già tàn nhẫn và khát máu khét tiếng của vùng Corleone chấm dứt.

Pablo Escobar – Ông trùm ma tuý Colombia và Robin Hood

Pablo Escobar là một trùm buôn bán ma túy người Colombia. Có thể nói chưa có 1 tên trùm mafia nào gây tranh cãi như Pablo Escobar, hắn vừa tàn nhẫn, độc ác và bất chấp thủ đoạn trong nhưng cũng rất yêu gia đình và dân tộc của mình.

Dù buôn bán “cái chết trắng” khắp mọi nơi, thu được lợi nhuận khổng lồ và kẻ thù số 1 của các quốc gia khác, đặc biệt là Mỹ nhưng ở chính quê hương mình – Colombia, Escobar tắm trong hào quang của một Robin Hood.Với tiền lãi khủng được che đậy dưới vỏ các công ty bán ô-tô và chăn nuôi gia súc, Escobar dựng hàng loạt khu chung cư cho người nghèo từ khu ổ chuột, xây sân bóng đá, trường học, tái tạo rừng cây…

Và chẳng có gì ngạc nhiên khi với quyền lực trong thế giới ngầm của mình cũng như danh tiếng trong nước, hắn dễ dàng bước vào chính trường Colombia. Tuy nhiên, một khi đã nằm trong tầm ngắm của cường quốc số 1 thế giới thì không ai có thể thoát, Mỹ đã làm việc với Colombia yêu cầu giao nộp Escobar nhưng Escobar với lời tuyên chiến nổi tiếng “Nấm mồ ở Colombia còn hơn xà lim nước Mỹ” đã kiên quyết và bất chấp thủ đoạn để không bị giao nộp từ việc làm việc với chính phủ Colombia đến đe dọa khủng bố.

Cuối cùng, hai bên đều nhân nhượng, ông chấp nhận vào tù ở Colombia với điều kiện nhà tù đó được xây dựng riêng cho ông. Và thế là nhà tù La Catedral ra đời. Escobar tự xây nhà tù La Catedral trong đó có một thác nước, bar rượu, trong phòng tắm có jaccuzi và một sân đá banh. Trong lòng những người dân nghèo của Colombia, Escobar luôn là 1 anh hùng.

Semion Mogilevich – Siêu bố già của Nga

Semion Mogilevich – Siêu bố già của Nga từng là 1 trong những tên tội phạm được giới điều tra quốc tế săn lùng ráo riết nhất thế giới. Sinh ra ở Ukraina và “lập nghiệp” ở Moskva nhưng Mogilevich không giống những khác (chủ yếu hoạt động trong công đồng Liên Xô cũ vì trong giai đoạn phát triển này, luật pháp còn nhiều kẻ hở và có nhiều cơ hội thao túng thị trường), hắn mở rộng thị trường ra ngoại quốc.

Lĩnh vực hoạt động của Mogilevich rất đa dạng: từ rửa tiền, mại dâm, lủng đoạn thị trường đến buôn bán các loại vũ khí hạng nặng như tên lửa, súng phòng không tại các quốc gia vùng vịnh và quy mô kinh doanh trải rộng cả 3 đại lục: Nga, Ukraina, Anh, Hungary và Czech ở châu Âu, hay Israel, Pakistan và tại châu Á, cũng như liên kết với các tổ chức tội phạm Nam Mỹ hòng lũng đoạn thị trường Hoa Kỳ.

Những hoạt động phi pháp của Mogilevich đã làm đau đầu các nước phương Tây như Mỹ (đã đặt mức án cho hắn 390 năm), Anh, Canada…và dĩ nhiên hắn được đặt vào lệnh truy nã đỏ của Interpol. Dù bị truy nã ráo riết nhưng Mogilevich vẫn ung dung ngoài vòng hơn 17 năm nhờ vào thế lực của mình cũng như sự thông minh khi trốn ở những nước không có hiệp định dẫn độ tội phạm với Mỹ.

Tuy nhiên, năm 2008, Mogilevich bị cảnh sát Nga bắt vì tội trốn . Tuy nhiên, ngay sau đó hắn đã được thả tự do và hiện nay đang ung dung sống ở Moskva. Vì sao Mỹ và Interpol không thể bắt được Mogilevich? Lý do rất đơn giản, Nga không ký hiệp định dẫn độ tội phạm với Mỹ.

Theo thông tin từ giới điều tra quốc tế, ước tính tài sản của Mogilevich khoảng 10 – 12 tỷ USD.

Al Capone

Al Capone là một Gangster người Mỹ đã dẫn đầu một tổ chức tội phạm trước thời kỳ cấm rượu. Ông chuyên hoạt động buôn lậu và buôn lậu rượu và các hoạt động bất hợp pháp khác như tổ chức mại dâm ở Chicago từ đầu những năm 1920 đến 1931.

Khác với những mafia khác, tuổi thơ của Al rất bình yên và không có nhiều biến động. Mọi chuyện chỉ chuyển sang bước ngoặc khác khi năm 14 tuổi, Al quyết định nghỉ học vì không chịu nổi sự phân biệt đối xử ở trường đối với dân nhập cư. Thời gian này, cậu đã quen với cặp vợ chồng hàng xóm tội phạm là Johnny Torrio và Mae.

Cặp đôi của thế giới ngầm này có những ảnh hưởng đầu tiên tới cuộc đời tội phạm của Al Capone. Dù giao du với Torrio nhiều nhưng trong thời gian này, Al không hề bộc lộ khả năng trở thành 1 tội phạm khét tiếng sau này. Năm 19 tuổi, Al yêu và lấy Teresina.

Terisina đã có tác động tích cực tới Al khi thuyết phục thành công hắn chuyển từ New York sang Chicago và sống 1 cuộc đời lương thiện. Tuy nhiên, cuộc sống đơn thuần của kế toán viên Al không kéo dài được bao lâu thì bóng ma quá khứ – Torrio – cũng đã đến Chicago và quyết định hoạt động ở đây. Và Torrio đã tìm và nhờ Al giúp đỡ hắn “tạo dựng tên tuổi” ở đất Chicago này, với thế lực của Torrio và tài năng trong kinh doanh của Al, hai người lên như diều gặp gió và dần dần, Al không chỉ là thuộc mà còn đứng ngang vai ngang vế với Torrio.

Không lâu sau đó, cảnh sát nắm được chứng cứ phạm tội của Torrio, Torrio đã bị bắt và những tháng ngày trong tù khiến vị đại ca này quyết định gác kiếm, sống 1 cuộc đời an nhàn và trao mọi quyền lực cũng như tài sản cho Al.

FILE – In this Jan. 19, 1931 file photo, Chicago mobster Al Capone attends a football game in Chicago. On Thursday, Feb. 14, 2013, the Chicago Crime Commission and the Drug Enforcement Administration are scheduled to name Joaquin Guzman Loera, a cartel kingpin in Mexico, as the new Public Enemy No. 1. It will the first time since Prohibition-era gangster Capone that authorities in the city deemed a crime figure so ominous a threat to deserve the label. (AP Photo/File)

Thế là thời đại đỉnh cao của Al tới, có thể nói đây là thời kỳ may mắn nhất của Al khi liên tục dính vào những vụ án giết người, làm ăn phi pháp và gần như hắn chắc chắn nhà tù cách mình không xa, thế nhưng cảnh sát lại không đủ chứng cứ và nhiều lần thả hắn ra.

Cuối cùng vì sự lộng hành quá đáng của Al, bấy giờ Herbert Hoover đã thành lập 1 đội chuyên án bao gồm cảnh sát và giới tình báo bằng mọi cách phải tống Al vào tù. Sau đó, với những nỗ lực của bộ phận tình báo Mỹ, cảnh sát đã thu thập đủ chứng cứ phạm tội của Al và đủ cơ sở tống Al vào tù. Tháng 11/1939, Al được trả tự do, vợ Al đưa hắn vào một bệnh viện ở Baltimore nơi hắn được chữa trị cho đến tận tháng 3/1940.

Trong những năm tháng sau đó, sức khỏe của Al dần dần suy sụp. Hắn sống lặng lẽ trong ngôi biệt thự xa hoa trên đảo Palm. Mae luôn ở bên Al cho đến tận lúc hắn trút hơi thở cuối cùng vào ngày 25/1/1947 ở tuổi 48.

BÌNH LUẬN