Những vấn đề nan giải của Dầu khí Việt Nam

0
2001

Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, PVN đã không ngừng phát triển, trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng, tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ từ khâu tìm kiếm, thăm dò, khai thác, đến vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu.
Có thể nói, khó khăn, thách thức đối với tất cả các hoạt động của Tập đoàn (PVN) trong giai đoạn tới là rất phức tạp và không thể lường trước được hết. Trong lịch sử, PVN đã trải qua những giai đoạn cực kỳ khó khăn và cũng đã vượt qua. Giai đoạn này, những khó khăn tuy có khác, nhưng với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, với , nội lực của tập thể cán bộ, công nhân viên và người lao động dầu khí, chắc chắn PVN sẽ vượt qua.

Hiện trạng phát triển ngành Dầu khí Việt Nam

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là Tập đoàn kinh tế Nhà nước có quy mô lớn về cơ sở vật chất, cũng như năng lực sản xuất, kinh doanh và đóng góp lớn cho ngân sách quốc gia trong nhiều năm qua. PVN cũng là đơn vị đi đầu trong mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tham gia có hiệu quả bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên biển và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.

Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, PVN đã không ngừng phát triển, trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng, tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ từ khâu tìm kiếm, thăm dò, khai thác, đến vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, đến nay,PVN đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được tất cả các yêu cầu cao nhất về công nghệ của ngành dầu khí.

Trong những năm trước 2015, ngoài các thành công quan trọng đạt được trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, hàng năm PVN đóng góp trung bình 20-25% tổng thu ngân sách nhà nước, 10-12% GDP cả nước. Đặc biệt, PVN đã thực hiện thành công và đưa vào vận hành 3 cụm dự án/dự án trọng điểm quốc gia về dầu khí. Đó là, Cụm Khí – Điện – Đạm Cà Mau; Cụm Khí – Điện – Đạm Đông Nam bộ và dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất; các Cụm dự án/dự án này đang hoạt động hiệu quả không những về mặt kinh tế mà có đóng góp to lớn cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương nơi có dự án vận hành.

Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay, PVN đã gặp phải những khó khăn chưa từng thấy, đó là:

1/ Giá dầu thế giới giảm mạnh và kéo dài tiêu cực đã khiến cho cả ngành dầu khí thế giới lao đao, trong đó có Việt Nam. Nhiều dự án thăm dò, khai thác phải dừng, giãn tiến độ khiến cả lĩnh vực dịch vụ cũng ảnh hưởng nặng nề.

2/ Cạnh tranh giữa các tập đoàn khai thác dầu khí, vận chuyển và dịch vụ… trên thế giới ngày một khốc liệt và các nước tăng cường bảo hộ cho doanh nghiệp trong nước. Những yếu tố này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới các lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò khai thác và dịch vụ kỹ thuật dầu khí của PVN.

3/ Một số vụ việc tiêu cực ở Tập đoàn và các đơn vị thành viên khiến nhiều cán bộ bị xử lý bằng pháp luật đã ảnh hưởng xấu đến , uy tín của PVN, tác động không nhỏ tới tâm tư, tình cảm của người lao động.

4/ Bên cạnh đó là rất nhiều khó khăn do những cơ chế, chính sách, luật pháp chưa phù hợp, hoặc đã lạc hậu với sự phát triển của PVN trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho PVN thực hiện các mục tiêu chiến lược chưa được ban hành đầy đủ, kịp thời (Quy chế tài chính Công ty mẹ – Tập đoàn hiện vẫn chưa được ban hành).

5/ Việc bảo lãnh vay vốn, thu xếp vốn cho các dự án của PVN gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như: Dự án nâng cấp mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, dự án Tổ hợp hóa dầu miền Nam không được bảo lãnh Chính phủ dẫn đến mất lợi thế khi huy động nguồn nước ngoài, cũng như chính doanh nghiệp nước chủ nhà, do đó, PVN đã phải thoái toàn bộ vốn góp tại dự án này.

6/ Việc xử lý các dự án đầu tư ở nước ngoài như Junin 2, SK 305… kéo dài và gặp nhiều khó khăn.

7/ Công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí gặp nhiều khó khăn; tiềm năng dầu khí hạn chế, trữ lượng nhỏ, thuộc vùng nước sâu, xa bờ, hoặc có địa chất phức tạp, kết hợp với sâu nên công tác kêu gọi đầu tư gặp khó khăn.

8/ Các đơn vị dịch vụ dầu khí hoạt động khó khăn do khối lượng công việc và giá dịch vụ giảm sâu từ 20 đến 70% cho từng loại dịch vụ.

9/ Các sản phẩm chủ lực của ngành dầu khí phải đối diện với sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm nhập khẩu trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng.

10/ Các dự án đơn vị yếu kém (xơ sợi Đình Vũ, nhiên liệu sinh học, đóng tàu Dung Quất) chưa xử lý được triệt để, cũng là do những cơ chế cũ không còn phù hợp.

Trong bối cảnh khó khăn chồng chất khó khăn như vậy, nhưng PVN vẫn trụ vững, tiếp tục đạt được những kết quả khích lệ và quan trọng nhất là đã nộp ngân sách hàng năm chiếm tỷ trọng 9-11% tổng thu ngân sách chung của nhà nước và chiếm 16,5-17% tổng thu ngân sách Trung ương. Riêng nộp ngân sách nhà nước từ dầu thô chiếm 5-6% tổng thu ngân sách chung của nhà nước và 7-9% tổng thu ngân sách Trung ương; đóng góp cho GDP cả nước trung bình hàng năm là 10-13%.

Định hướng phát triển ngành Dầu khí Việt Nam

Ngành Dầu khí Việt Nam, mà trong đó PVN là đơn vị chủ lực luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ.

Thấy trước được những gì đang là nhân tố cản trở sự phát triển của PVN, nên ngày 23/7/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035” (Nghị quyết 41).

Nghị quyết 41 nêu ra mục tiêu phát triển ngành dầu khí thành ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng, then chốt, hoàn chỉnh, đồng bộ, bao gồm tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu; góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển ngành dầu khí; xây dựng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dầu khí có tiềm lực mạnh về tài chính và công nghệ, có sức cạnh tranh cao, chủ động tích cực hội nhập quốc tế.

Nghị quyết 41 đã chỉ ra cần phải: sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về dầu khí, trong đó quy định rõ về hoạt động dầu khí từ thượng nguồn, trung nguồn, hạ nguồn. Hoạch định các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp để thúc đẩy ngành Dầu khí Việt Nam phát triển. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về dầu khí; tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực dầu khí. Đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách tăng cường thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để phát triển ngành dầu khí. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển dầu khí trong nước tại những vùng nước sâu, xa bờ, vùng nhạy cảm.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 41 cũng yêu cầu phải xây dựng hành lang pháp luật đặc thù nhằm tăng quyền chủ động cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nhất là về quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm đi đôi với kiểm tra, giám sát; về cơ chế đầu tư ra nước ngoài; về công tác tự tổ chức thực hiện các dịch vụ dầu khí đặc thù trong nội bộ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu Tập đoàn bảo đảm vận hành đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập quốc tế; nghiên cứu phát triển các tổng công ty, công ty chuyên ngành trong lĩnh vực cốt lõi và các lĩnh vực chính đủ mạnh để có thể chủ động, tự thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, cho tới nay, đáng tiếc là việc triển khai thực hiện Nghị quyết 41 vẫn còn chậm. Nhiều cơ chế, chính sách không còn phù hợp vẫn chưa được điều chỉnh, hoặc sửa đổi.

Mặc dù vậy, để PVN tiếp tục phát triển, lãnh đạo Tập đoàn đã xây dựng kế hoạch phát triển trong tương lai, theo định hướng của Nghị quyết 41:

Thứ nhất: Tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí:

1/ Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản và tìm kiếm thăm dò dầu khí ở trong nước nhằm gia tăng trữ lượng dầu khí; xây dựng cơ chế đột phá, khuyến khích các nhà thầu lớn từ những nước có vị thế trên thế giới tham gia; phấn đấu trước năm 2035, cơ bản đánh giá được trữ lượng dầu khí trên đất liền và thềm lục địa Việt Nam.

2/ Tích cực thăm dò tại các bể nước nông, nghiên cứu thăm dò các đối tượng tìm kiếm thăm dò mới, các bể trầm tích mới và các dạng hydrocarbon phi truyền thống (khí than, khí nông, khí đá phiến sét, khí hydrate,…) để bổ sung trữ lượng phục vụ khai thác lâu dài.

3/ Khai thác hiệu quả các mỏ hiện có; phát triển, đưa các mỏ đã có phát hiện dầu khí vào khai thác hợp lý và có hiệu quả để sử dụng tài nguyên dầu khí trong nước lâu dài. Xây dựng phương án hợp tác, cơ chế khai thác chung tại những vùng chồng lấn, tranh chấp phức tạp. Triển khai thu dọn các mỏ đã hết khả năng khai thác, bảo đảm hoàn nguyên môi trường sinh thái.

4/ Đẩy mạnh các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở nước ngoài với cơ chế linh hoạt, phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của ngành dầu khí theo nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế tài chính và quản trị tốt rủi ro, chỉ lựa chọn các khu vực có tiềm năng dầu khí cao, môi trường đầu tư tốt, thuận lợi về quan hệ chính trị.

Thứ hai: Công nghiệp khí:

Xây dựng công nghiệp khí hoàn chỉnh, đồng bộ tất cả các khâu: khai thác – thu gom – vận chuyển – chế biến – xuất nhập khẩu – dự trữ – phân phối sản phẩm khí. Giảm dần tỷ trọng sử dụng khí cho điện và chất đốt, tăng cường cho chế biến sâu. Nghiên cứu, tìm kiếm thị trường và xây dựng cơ sở hạ tầng kho cảng để sẵn sàng nhập khẩu khí, cũng như các sản phẩm khí từ sau năm 2020. Nghiên cứu phương án xây dựng hệ thống đường ống kết nối các khu vực, hình thành hệ thống đường ống dẫn khí quốc gia.

Thứ ba: Chế biến dầu khí:

Chú trọng chế biến dầu khí nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước, hướng tới mục tiêu xuất khẩu. Tập trung phát triển lĩnh vực hóa dầu (bao gồm cả hóa dầu từ khí), hóa chất để nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm dầu khí, tạo ra các nguyên, nhiên, vật liệu để phục vụ phát triển sản xuất công nghiệp trong nước, hướng tới xuất khẩu, giảm tỷ trọng nhập siêu. Thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư từ xã hội để phát triển lĩnh vực chế biến dầu khí theo nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia và .

Đẩy mạnh việc tích hợp, tổ hợp lọc – hóa dầu với các nguồn khí tự nhiên khai thác nhằm nâng cao hiệu quả công trình, dự án đã đầu tư và phát triển các dự án mới cả về quy mô, mức độ chế biến sâu có sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.

Thứ tư: Tồn trữ, phân phối các sản phẩm dầu khí:

Phát triển hợp lý hệ thống phân phối xăng dầu nhằm bảo đảm lưu thông và bình ổn thị trường tiêu thụ, đáp ứng toàn bộ nhu cầu xăng dầu trong nước; tăng cường các giải pháp gia tăng dự trữ về dầu thô và xăng dầu; xây dựng chính sách, chế tài khuyến khích sử dụng tiết kiệm xăng dầu, khuyến khích sử dụng rộng rãi nhiên liệu sinh học nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhiên liệu hoá thạch và bảo vệ môi trường. Hoàn thiện việc điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường; khuyến khích sự tham gia tối đa của các thành phần kinh tế khác trong lĩnh vực phân phối sản phẩm dầu khí.

Thứ năm: Dịch vụ dầu khí:

Có cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ dầu khí, đặc biệt là dịch vụ dầu khí chất lượng cao; đẩy mạnh cổ phần hoá và thoái vốn đầu tư của Nhà nước để tái đầu tư vào lĩnh vực cốt lõi của ngành dầu khí. Đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại để bảo đảm chủ động thực hiện dịch vụ cho các lĩnh vực kinh doanh chính, các dự án đầu tư trong ngành dầu khí. Đồng thời, xây dựng cơ chế, chính sách tăng cường mở rộng cung cấp dịch vụ kỹ thuật dầu khí của Việt Nam ra nước ngoài. Xác định các dịch vụ chủ đạo: dịch vụ khoan và kỹ thuật giếng khoan; dịch vụ khảo sát, xử lý và minh giải địa chấn; dịch vụ địa chất công trình, khảo sát và sửa chữa công trình ngầm; dịch vụ thiết kế, chế tạo và xây lắp các thiết bị, công trình dầu khí; dịch vụ đóng mới và vận hành các phương tiện nổi phục vụ hoạt động dầu khí; dịch vụ vận hành và bảo dưỡng, sửa chữa các nhà máy, công trình dầu khí.

Thứ sáu: Công nghiệp điện:

PVN cần tăng cường công tác quản lý, vận hành, bảo trì, sửa chữa, bảo đảm hiệu quả đầu tư đối với các dự án, nhà máy điện đã và đang triển khai, phát triển thêm một số dự án điện khí. Không phát triển thêm các dự án thuỷ điện, điện than, điện gió…

Giải pháp phát triển bền vững

Trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, PVN quyết tâm thực hiện 8 nhóm giải pháp là:

Thứ nhất: Giải pháp về quản trị doanh nghiệp:

1/ Tham mưu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp với hành lang pháp luật nhằm tăng quyền chủ động cho PVN; về cơ chế đầu tư ra nước ngoài; về công tác tự tổ chức thực hiện các dịch vụ dầu khí đặc thù trong nội bộ.

2/ Tiếp tục thực hiện công tác tái cấu trúc doanh nghiệp bảo đảm vận hành đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập, trong đó Công ty mẹ – Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước là nòng cốt của ngành dầu khí. Sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp trong Tập đoàn mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, không cần nắm giữ vốn chi phối. Nghiên cứu phát triển các tổng công ty/công ty chuyên ngành, tập trung vào lĩnh vực cốt lõi, đủ mạnh và xóa bỏ sự cạnh tranh nội bộ theo các lĩnh vực hoạt động chính.

3/ Thiết lập và thực hiện hệ thống quản lý, quản trị doanh nghiệp hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Thường xuyên rà soát và tiến hành công tác cải cách hành chính trong quản lý, điều hành nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý.

4/ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Trong đó, tăng cường quản lý, giám sát thông qua người đại diện; xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế cử người đại diện dựa trên loại hình doanh nghiệp.

Thứ hai: Giải pháp về tài chính:

Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn, cụ thể:

1/ Hàng năm để lại khoảng 32% lãi dầu khí nước chủ nhà từ các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí; 100% lợi nhuận từ hoạt động hằng năm của Liên doanh Việt – Nga (Vietsovpetro) và 100% phần thu từ cổ phần hóa và thoái vốn tại các công ty con để tạo nguồn vốn cho PVN phát triển. Chủ động xây dựng, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển phù hợp với tỷ lệ để lại.

2/ Xây dựng lộ trình thoái vốn, cổ phần hóa hợp lý để thu hồi vốn, đáp ứng yêu cầu bổ sung vốn chủ sở hữu.

3/ Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn của các thành phần kinh tế khác trong nước.

4/ Đa dạng hóa các hình thức vay vốn: tín dụng thông thường, tín dụng xuất khẩu, vay ưu đãi của Chính phủ, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế,… Xây dựng tốt, cùng có lợi với các ngân hàng thương mại truyền thống; mở rộng hợp tác với các ngân hàng có uy tín trong khu vực và trên thế giới; bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay cho các dự án trọng điểm dầu khí.

Thứ ba: Giải pháp về đầu tư:

1/ Hoàn thiện quy chế, quy định về đầu tư phù hợp với thực tế của Tập đoàn, pháp luật của Nhà nước và thông lệ quốc tế, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình dầu khí. Mặt khác, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư.

2/ Nghiên cứu, xây dựng cơ chế ưu đãi đầu tư cho thăm dò và khai thác dầu khí tại những vùng nước sâu, xa bờ, đặc biệt là áp dụng các chính sách ưu đãi thuế hợp lý để thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ tư: Giải pháp về thị trường:

1/ Tìm kiếm các cơ hội hội nhập để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có các giải pháp thích hợp tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng hợp tác, liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài để mở rộng thị trường ra nước ngoài.

2/ Làm tốt công tác thông tin, làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng kế hoạch và triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp.

3/ Hình thành khâu cung cấp, sản xuất, tiêu thụ nhằm tạo mối liên hệ chặt chẽ từ nguyên liệu đầu vào cho đến sản phẩm đầu ra.

4/ Đẩy mạnh biện pháp quảng bá thương hiệu và nhãn hiệu của các doanh nghiệp trong Tập đoàn thông qua tham gia các hội nghị, triển lãm quốc tế; xây dựng thương hiệu PVN là thương hiệu quốc gia.

Thứ năm: Giải pháp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực:

1/ Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực; tổ chức đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật hiện có; đào tạo bổ sung cho những khâu còn thiếu, còn yếu; ưu tiên đào tạo chuyên gia thuộc các lĩnh vực mũi nhọn.

2/ Tăng cường hợp tác với các nhà thầu dầu khí, liên doanh với nước ngoài trong công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.

3/ Nâng cao năng lực của các cơ sở đào tạo; hoàn thiện hệ thống cán bộ làm công tác đào tạo từ Tập đoàn đến các đơn vị thành viên.

4/ Xây dựng, đề xuất các cấp có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ chính sách khác đặc thù áp dụng cho các hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí ở trong nước và nước ngoài.

Thứ sáu: Giải pháp khoa học công nghệ:

1/ Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên, môi trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của Tập đoàn. Đổi mới nhận thức, tư duy, đẩy mạnh đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học công nghệ, xây dựng quy chế ưu đãi, tăng đầu tư, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, đặt hàng cho công tác nghiên cứu khoa học.

2/ Tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao hiệu quả quản lý theo tinh thần đổi mới của Luật Khoa học và Công nghệ theo hướng bám sát nhu cầu thị trường và yêu cầu của ngành dầu khí. Xây dựng lộ trình công nghệ thích hợp cho Tập đoàn; xác định công nghệ cần phải chiếm lĩnh trong từng lĩnh vực cụ thể.

3/ Sử dụng hiệu quả Quỹ nghiên cứu khoa học; bổ sung Quỹ nghiên cứu khoa học của Tập đoàn từ cam kết tài chính của các hợp đồng dầu khí; các đơn vị thành viên Tập đoàn phải dành chi phí nhất định cho công tác nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, khuyến khích nghiên cứu, phát triển, đầu tư, thử nghiệm chuyển đổi và ứng dụng các công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp, tiến tới làm chủ các công nghệ.

4/ Tăng cường đầu tư cho trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, đầu tư mua và đổi mới công nghệ. Trước mắt, thực hiện giải pháp đầu tư có trọng điểm nhằm tăng cường năng lực trang thiết bị phục vụ nghiên cứu.

Thứ bảy: Giải pháp an toàn, môi trường và phát triển bền vững:

1/ Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về đảm bảo an toàn và bảo vệ môi trường, thực hiện đầy đủ các cam kết tại báo cáo đánh giá tác động môi trường/cam kết bảo vệ môi trường của tất cả các dự án.

2/ Hoàn thiện và vận hành hiệu quả hệ thống quản lý công tác an toàn – sức khỏe – môi trường trong toàn Tập đoàn và thực hiện kiểm tra giám sát theo các chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện và vận hành hiệu quả hệ thống dự báo, quản trị rủi ro.

3/ Hoàn thiện hệ thống tổ chức và đầu tư trang thiết bị để nâng cao năng lực ứng cứu các tình huống khẩn cấp trong toàn Tập đoàn.

4/ Phát triển hệ thống quản lý và xử lý chất thải dầu khí với công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện Việt Nam, bảo đảm có đủ năng lực tự xử lý các nguồn thải của ngành; lựa chọn và sử dụng công nghệ cao, hiệu quả, thân thiện môi trường, công nghệ có độ tin cậy và an toàn cao.

5/ Xây dựng định mức cho hoạt động an toàn sức khỏe môi trường để có thể thực hiện hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất; xây dựng cơ sở dữ liệu về an toàn vệ sinh môi trường toàn Tập đoàn nhằm phục vụ công tác quản lý và nghiên cứu khoa học.

6/ Xây dựng và triển khai chương trình tiết kiệm năng lượng và sản xuất năng lượng sạch.

Thứ tám: Giải pháp an ninh – quốc phòng – ngoại giao:

1/ Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, thường xuyên việc kiểm điểm kết quả thực hiện các Quy chế phối hợp và các Thoả thuận hợp tác giữa PVN với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao để chủ động chuẩn bị và thực hiện tốt nhiệm vụ khảo sát điều tra cơ bản, tìm kiếm thăm dò dầu khí, đảm bảo an ninh cho việc triển khai tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí trên biển.

2/ Triển khai thực hiện hợp tác hai chiều giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Bộ Quốc phòng, Bộ Công an nhằm kết hợp hài hoà giữa phát triển của PVN gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng và bảo vệ chủ quyền quốc gia.

BÌNH LUẬN